Chuyển đến nội dung chính

Bệnh Gút ( Gout)

Bệnh Gút (Gout) là một dạng viêm khớp thường gây ra những cơn đau rất khó chịu cho người bệnh. Bệnh gút thường gặp ở những nam giới có độ tuổi từ 40 - 50 và xuất phát từ thói quen ăn uống phản khoa học. Vậy những người bị bệnh gút (gout) nên ăn gì và kiêng gì? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau :


Bệnh gút là gì?


Theo định nghĩa trong y học hiện đại, bệnh gút là hiện tượng lắng đọng những tinh thể Urat do sự rối loạn trao đổi chất Axid Uric tại các khớp xương và gân gây sưng và đau nhức cho người bệnh. Những vị trí thường bị đau do bệnh gút là khớp ngón chân, ngón tay, mắt cá chân, đầu gối, cổ tay...

Bệnh gút thường gặp ở nam giới từ 40 – 50 tuổi nhưng hiện nay do chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện, độ tuổi có nguy cơ mắc bệnh đã giảm xuống 30, những đối tượng thường xuyên dùng bia rượu, hải sản và thịt đỏ giàu đạm. Phụ nữ cũng có nguy cơ bị gút sau thời kỳ mãn kinh.

Người bị bệnh gút thường phải trải qua những triệu chứng điển hình là các cơn đau ở khớp ập tới bất thình lình kèm theo biểu hiện sưng – đau – nóng – đỏ tại một hoặc nhiều khớp, viêm khớp, viêm cạnh khớp, lắng đọng sạn Urat ở khớp, xương, mô phần mềm, sụn khớp, lắng đọng sạn Urat  thận gây bệnh viêm thận kẽ, suy thận cấp… do gút. Tê chân tay sau sinh http://coxuongkhoppcc.com/te-tay-chan-sau-sinh.html 

Những cơn đau do bệnh gút gây ra có thể giảm đi trong khoảng 7 – 10 ngày kể cả khi không được điều trị nhưng sẽ tiếp tục tái phát sau vài tháng hoặc vài năm. Lúc này bệnh đã chuyển sang giai đoạn mãn tính và rất khó điều trị.


Bệnh gút (gout) có 2 dạng nguyên phát và thứ phát


✦ Bệnh gút dạng nguyên phát: Dạng này chiếm đại đa số các trường hợp bị bệnh. Chưa xác định rõ nguyên nhân của gout nguyên phát, đó có thể là do di truyền, quá trình tổng hợp purin nội sinh tăng mạnh dẫn đến tăng axit uric hoặc cũng có thể do cơ địa từng người.

✦ Bệnh gút dạng thứ phát: Nguyên nhân có thể do mắc các bệnh về máu như đa hồng cầu, thiếu máu, tan máu, bạch cầu tinh thể tủy. Hoặc tăng giáng hóa purin kiềm nội sinh, giảm thải axit uric qua thận do viêm thận mãn tính, suy thận.

Gút là bệnh mạn tính nhưng không có nghĩa là không thể điều trị dứt điểm. Người bệnh có thể dùng thuốc kết hợp xây dựng chế độ sinh hoạt, ăn uống hợp lý thì bệnh sẽ nhanh chóng được đẩy lùi. Đồng thời cần xét nghiệm axit uric máu định kỳ để tầm soát bệnh.

Hy vọng những chia sẽ của bác sĩ sẽ giúp bạn có những kiến thức để bảo vệ sức khỏe của mình và gia đình được tốt hơn. Chúc bạn luôn vui vẻ và mạnh khỏe.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thoái hóa khớp gối ở nữ

TỪ TUỔI NGOÀI 30, LƯỢNG XƯƠNG CỦA PHỤ NỮ ĐÃ DẦN BỊ THOÁI HÓA (MỖI NĂM GIẢM 0,25 – 1%). ĐẾN THỜI ĐIỂM TRƯỚC VÀ SAU KHI MÃN KINH, LƯỢNG ESTROGEN GIẢM MẠNH, NÊN TỐC ĐỘ THOÁI HÓA XƯƠNG KHÁ NHANH, MỖI NĂM GIẢM 1 – 5% VỚI BIỂU HIỆN CHỦ YẾU LÀ XỐP XƯƠNG Do đặc thù công việc hay phải làm việc nhà nên phụ nữ có tỉ lệ mắc thoái hóa khớp gối nhiều hơn nam giới Thêm vào đó, quá trình lão hóa đã làm giảm công năng của tế bào xương, sự hấp thụ canxi và sự tổng hợp các vitamin kém đi, ảnh hưởng xấu đến cấu trúc của xương, sụn mỏng đi, mất tính đàn hồi… gây ra các triệu chứng đau nhức, khớp xương ở tay chân hay bị tê mỏi, sưng tấy… Ngoài ra, phụ nữ dễ bị tổn thương khớp gối hơn nam giới do dây chằng trước của khớp gối yếu hơn, thêm nữa do đặc thù làm việc nhà, phụ nữ thường ngồi xổm, ngồi xuống đứng lên nhiều lần trong ngày, khi sụn yếu, với áp lực như vậy sẽ dễ bị tổn thương. Nếu không chữa trị kịp thời, các triệu chứng này sẽ dần phát triển thành bệnh thoái hóa xương khớp gối. ...

Xương thủy tinh là bệnh gì?

Bệnh xương thủy tinh (xương dễ gãy) là rối loạn di truyền liên quan đến cấu trúc xương. Người mắc bệnh này thường dễ vỡ xương, mặc dù có thể ít hoặc không có tổn thương rõ ràng.  Ngoài gãy xương, người bệnh đôi khi bị yếu cơ hoặc lỏng khớp và thường mắc dị tật xương bao gồm tầm vóc nhỏ, vẹo cột sống (cong cột sống), các xương dài hình cung. Bệnh xương thủy tinh gồm có 4 loại, đặc trưng bởi tần suất và mức độ nghiêm trọng của xương gãy, bao gồm: Loại I: đây là loại xương thủy tinh nhẹ và phổ biến nhất. Những người mắc xương dễ gãy loại I khi còn nhỏ và niên thiếu thường do chấn thương nhỏ gây ra; Loại II: đây là hình thức nghiêm trọng nhất của bệnh xương thủy tinh. Trẻ sơ sinh mắc bệnh này thường chết trong năm đầu tiên sau sinh; Loại III: bệnh xương dễ gãy có các dấu hiệu và triệu chứng tương đối nặng. Trẻ sơ sinh bị xương thủy tinh loại III có xương rất mềm, dễ vỡ và có thể bắt đầu gãy trước khi sinh hoặc trong giai đoạn sơ sinh; Loại IV: đây là hình thức...